Vừa qua, thực hiện quy định mới của Luật các tổ chức tín dụng, phần lớn các ngân hàng đã công bố tỷ lệ sở hữu cổ phần của cá nhân, tổ chức và người có liên quan.
Liên quan đến vấn đề sở hữu và xử lý sở hữu vượt trần ngân hàng, tại hội thảo “Xây dựng các tập đoàn tài chính phát triển bền vững ở Việt Nam” do Tạp chí điện tử VietTimes phối hợp với CLB Café Số (Hội Truyền thông số Việt Nam) tổ chức vào sáng ngày 5/12, ông Lê Xuân Nghĩa, nguyên Phó chủ tịch Ủy ban giám sát tài chính quốc gia nhấn mạnh tính minh bạch là một trong những yêu cầu quan trọng nhất của Luật Tổ chức tín dụng mới.
Ông cho rằng việc kiểm tra nguồn gốc vốn góp là rất cần thiết để đảm bảo tính minh bạch. Tuy nhiên, ông cũng lo ngại rằng trong thực tế, việc thực hiện điều này sẽ gặp nhiều khó khăn do tính minh bạch chung của xã hội Việt Nam còn thấp.
Về giám sát và thanh tra hoạt động ngân hàng, ông Lê Xuân Nghĩa nhận thấy công tác giám sát và thanh tra hoạt động của các ngân hàng thương mại vẫn còn nhiều bất cập. Ông đưa ra ví dụ về trường hợp của Ngân hàng SCB, tồn tại trong nhiều năm trong tình trạng không minh bạch mà không ai xử lý. Ông Nghĩa nói rằng nếu không có cải cách thực sự về hành chính và pháp lý, thì tình trạng này sẽ khó có thể thay đổi.
Chuyên gia này cũng nói thêm rằng một số ngân hàng hiện đang vượt quá các tỷ lệ an toàn vốn quy định. Ông cho rằng không nên có lộ trình dài để các ngân hàng này tuân thủ, mà nên yêu cầu các ngân hàng phải tuân thủ ngay trong vòng 6 tháng đến 1 năm.
Ông Nghĩa nhận thấy Luật Tổ chức tín dụng mới có nhiều điểm tích cực, đặc biệt là về tăng cường tính minh bạch và kiểm soát. Trong thời gian gần đây, hoạt động góp vốn của các ngân hàng đã trở nên minh bạch hơn so với trước đây.
Tuy nhiên, theo ông Nghĩa, các quy định về vốn cần được thực hiện nghiêm ngặt, nhưng vấn đề quan trọng nhất là việc sử dụng nguồn vốn vay, đặc biệt là việc cho vay các bên liên quan.
Nêu kinh nghiệm quốc tế về quản lý các ngân hàng, TS. Nguyễn Trí Hiếu cho biết ở Mỹ cũng có sự kiểm soát về tỷ lệ sở hữu tại các ngân hàng. Tuy vậy, tại Mỹ, tỷ lệ sở hữu của pháp nhân được quy định thấp hơn tỷ lệ sở hữu của cá nhân, nguyên do là nhà chức trách Mỹ cho rằng pháp nhân dễ thao túng ngân hàng hơn cá nhân.
Còn Việt Nam thì ngược lại, tỷ lệ sở hữu của cá nhân được quy định thấp hơn pháp nhân. Điều này xuất phát từ “đặc thù” của văn hóa doanh nghiệp tại Việt Nam, đó là các cá nhân có quyền lực rất lớn trong doanh nghiệp.
TS. Hiếu cũng cho hay, bên Mỹ có thông lệ Affidavit (tuyên bố hữu thệ). Trong nhiều trường hợp, các cổ đông phải “Affidavit” rằng nếu họ khai gian, họ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Tuy nhiên tại Việt Nam chưa có thông lệ này và chưa thực sự kiểm soát được sở hữu thực sự của một cá nhân hay một tổ chức kinh tế tại ngân hàng.
“Về vai trò của nhà quản lý, các cổ đông có thể lách quy định sở hữu bằng việc nhờ đứng tên hộ, nhưng điều này thường sẽ không giấu được cơ quan chức năng. Muốn làm quyết liệt thì sẽ làm được, việc điều tra một người có liên quan đến ai trong ngân hàng đâu có khó”, ông Hiếu nói.
TS. Nguyễn Trí Hiếu đưa ra ví dụ, các cổ đông bị nghi ngờ có sự kết nối với nhau thì thường có dấu vết kết nối qua tài khoản, thể hiện trên sổ sách. Dĩ nhiên có giao dịch tiền mặt, không có dấu vết, nhưng điều này rất ít. Thường thường, các giao dịch đó có thể tìm ra dễ dàng. Nhưng quan trọng là phải làm thanh tra nghiêm túc, rõ ràng. Trường hợp vụ SCB, cán bộ phát hiện ra sai phạm nhưng nhận hối lộ và che giấu thì vô cùng nguy hiểm.
Ông đề xuất cần có chế tài nghiêm ngặt, ở Nghị định hướng dẫn Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 có thể đưa ra chế tài, nếu ngân hàng nào vi phạm quy định lặp đi lặp lại, chẳng hạn như 3 lần, thì phải rút giấy phép. Cần phải có một vài ngân hàng sai phạm bị xử phạt một cách mạnh tay để làm gương cho toàn thị trường.