Tại Diễn đàn Chuỗi phân phối LNG toàn cầu và vị thế của Việt Nam (tổ chức vào sáng 18/12), ông Nguyễn Đức Tùng-Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách Công Thương cho biết, hiện nay tổng công suất hóa lỏng toàn cầu đạt khoảng 482,5 MT (tấn mét – Metricton) với tỷ lệ vận hành trung bình của các nhà máy là 88,7% năm 2023.
Trong đó, Hoa Kỳ vẫn là quốc gia có công suất hóa lỏng lớn nhất, khoảng 91,4 triệu tấn mỗi năm (MTPA), tiếp theo là Úc với công suất 87,6 MTPA và Qatar với 77,1 MTPA. Bên cạnh các nhà máy đang vận hành, trong năm 2023 toàn thế giới có khoảng 58,8 MTPA được chấp thuận đầu tư hoặc đang triển khai đầu tư và khoảng 1.046 MTPA tiềm năng đang thực hiện đánh giá tiền khả thi.
Năm 2023, Việt Nam chính thức ghi tên vào bản đồ LNG toàn cầu với vai trò là nhà nhập khẩu mới. Với địa lý thuận lợi, gần các tuyến hàng hải quốc tế; hệ thống cảng biển hiện đại; gần các trung tâm LNG lớn của Đông Nam Á; cam kết chuyển đổi năng lượng mạnh mẽ, Việt Nam đang được biết đến là một nhà nhập khẩu tiềm năng và tương lai sẽ là mắt xích quan trọng trong chuỗi LNG toàn cầu nói chung và của khu vực Đông Nam Á nói riêng.
Theo ông Nguyễn Đức Tùng, do mới phát triển nên lượng tiêu thụ LNG của Việt Nam còn rất thấp. Năm 2023 tổng sản lượng nhập khẩu đạt xấp xỉ 0,1 MT, chỉ chiếm 0,2% tổng lượng LNG nhập khẩu toàn cầu. Tuy nhiên, với vai trò là nguồn năng lượng quan trọng để thực hiện thành công mục tiêu chuyển đổi năng lượng, đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, nhu cầu LNG của Việt Nam sẽ tăng lên nhanh chóng.
“Dự báo nhu cầu LNG của Việt Nam sẽ khoảng 15 -20 MTPA vào năm 2030 và khoảng 20-25 MTPA năm 2035. Vì vậy thu hút đầu tư, phát triển hạ tầng LNG tại Việt Nam, gia tăng vị thế trong chuỗi LNG toàn cầu cũng là nhu cầu phát triển tất yếu”, ông Tùng nói.
Liên quan đến vấn đề này, bà Đặng Thị Thủy-Trung tâm thông tin và công nghiệp, Bộ Công thương cho biết hiện nay, Việt Nam có 13 dự án điện LNG đã được Thủ tướng phê duyệt trong danh mục các dự án quan trọng, ưu tiên đầu tư của ngành điện tại Quyết định 500/QĐ-TTg. Theo đó, tới năm 2030 sẽ có 22.400 MW điện khí LNG, chiếm 14,9% tổng nguồn điện của cả nước với năng lực sản xuất 83 tỷ kWh. Đây sẽ là một trong các nguồn giúp bảo đảm cung cấp đủ, ổn định và an toàn hệ thống điện quốc gia.
Tại Việt Nam, khí LNG được sử dụng chủ yếu làm nhiên liệu cho các nhà máy điện và hộ tiêu thụ công nghiệp. Đặc biệt các dự án điện và kho cảng LNG đang khiến thị trường LNG tại Việt Nam trở nên sôi động, lượng khí LNG nhập khẩu vào Việt Nam sẽ phục vụ chính cho việc sản xuất điện khí nhằm giảm thiểu phát thải gây ô nhiễm môi trường từ nhiệt điện than, cùng với đó là đảm bảo nguồn cung ổn định trước sự sụt giảm của tài nguyên than đá, thuỷ điện do hạn hán và khai thác quá mức đe dọa sản lượng phát điện trong tương lai gần.
Hiện nay, Việt Nam đang triển khai kế hoạch xây dựng hệ thống kho cảng và cơ sở vật chất phù hợp để vận hành cơ sở nhập khẩu LNG. Chính phủ cũng đang hoàn thiện các tiêu chuẩn và quy định để tạo hành lang pháp lý phù hợp, mở đường cho việc chuyển đổi sử dụng LNG rộng rãi hơn trong thời gian tới.
Cơ hội từ thị trường LNG Việt Nam
Bà Đặng Thị Thủy cho biết thị trường LNG Việt Nam đang có nhiều cơ hội để phát triển. Điển hình như xu hướng chuyển đổi sử dụng LNG đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu, tạo cơ hội giúp Việt Nam thuận lợi tiếp cận với các nguồn cung LNG ổn định với mức giá tốt.
Bên cạnh đó, sự chuyển dịch của các nhà máy sản xuất trên thế giới về Việt Nam cùng với sự gia tăng của các nhà máy nhiệt điện khí trong nước mở ra thị trường tiềm năng cho thị trường LNG Việt Nam trong nhiều năm tới. Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam có hoạch định chiến lược phát triển thị trường LNG rõ ràng, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước chuyển đổi sử dụng LNG.
Tuy nhiên, thị trường LNG Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều thách thức như do gia nhập thị trường LNG quốc tế muộn, Việt Nam buộc phải tuân thủ các thông lệ quốc tế được định sẵn trong quá trình nhập khẩu LNG.
Cơ sở vật chất và hành lang pháp lý cho việc nhập khẩu LNG đang trong giai đoạn hoàn thiện, chưa thể đáp ứng được nhu cầu hiện tại. Thêm vào đó, tình hình địa chính trị trên thế giới căng thẳng với cuộc xung đột Nga – Ukraine, tạo nên nhiều biến động lớn về nguồn cung và mức giá LNG trong thời gian tới.
Ông Lã Hồng Kỳ- Văn phòng Ban Chỉ đạo Nhà nước các dự án ngành năng lượng cho rằng có nhiều nguyên nhân khác cần tháo gỡ để phát triển nguồn điện khí.
Cụ thể, một số tỉnh chưa tiến hành lựa chọn được nhà đầu tư (Thanh Hóa, Nghệ An và Ninh Thuận) do còn lúng túng, chậm trễ trong công tác phê duyệt chủ trương đầu tư, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư.
Trong quy hoạch và kế hoạch thực hiện quy hoạch, một số đường dây đấu nối đồng bộ để giải tỏa công suất cho các dự án nhà máy điện lớn chưa được giao chủ đầu tư, ảnh hưởng đến việc triển khai thực hiện các dự án đường dây và việc đàm phán các thỏa thuận đấu nối giải tỏa công suất cho một số dự án điện khí.
Các chủ đầu tư đã được giao dự án cũng gặp khó khăn, vướng mắc trong thu xếp vốn vay do phải đáp ứng các yêu cầu của tổ chức tín dụng (các dự án điện khí hiện nay, trừ dự án Nhơn Trạch 3 & 4, đang sử dụng hợp đồng mua bán điện (PPA) của dự án để đi thu xếp toàn bộ vốn vay cho dự án). Tuy nhiên, hiện chưa có dự án điện khí nào hoàn thành việc đàm phán, ký kết hợp đồng PPA với EVN do còn một số vướng mắc liên quan đến sản lượng Qc (sản lượng hợp đồng) dài hạn ổn định hoặc chuyển ngang cam kết sản lượng mua khí từ hợp đồng mua khí sang hợp đồng mua điện; và vấn đề chuyển ngang giá khí sang giá điện.
Đối với các chuỗi dự án khí cần đòi hỏi tính đồng bộ cả về kỹ thuật và hiệu quả đầu tư của từng dự án thành phần, tính hiệu quả của từng dự án thành phần phụ thuộc vào nhiều yếu tố, khó lường trước, gây tâm lý e ngại cho các nhà đầu tư. Các dự án này thường có thời gian thực hiện kéo dài, do nhiều chủ đầu tư khác nhau (bao gồm cả chủ đầu tư nước ngoài) thực hiện, chịu sự điều chỉnh của nhiều bộ luật liên quan. Vì vậy, trong quá trình triển khai khó lường hết được những vướng mắc, ảnh hưởng đến tiến độ tổng thể của cả chuỗi dự án.
“Để các dự án nhà máy nhiệt điện khí tiếp tục được triển khai đúng tiến độ thì ngoài việc xác định cơ cấu nguồn điện phù hợp cần phải tập trung xây dựng cơ chế, chính sách để giải quyết các khó khăn, thách thức nêu trên”, ông Lã Hồng Kỳ nhấn mạnh.