Ngày 30/9, Văn phòng Chính phủ có văn bản số 441/TB-VPCP thông báo kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà tại cuộc họp về chủ trương đầu tư đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc – Nam.
BÁO CÁO CƠ SỞ LỰA CHỌN THIẾT KẾ 350 KM/H
Theo đó, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà yêu cầu Bộ Giao thông Vận tải tổng hợp, tiếp thu đầy đủ các ý kiến tại cuộc họp để khẩn trương hoàn thiện Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án đầu tư đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc – Nam (Dự án).
“Cần báo cáo rõ cơ sở lựa chọn tốc độ thiết kế 350km/h đường sắt tốc độ cao gắn với công nghệ cao, hiện đại và giải trình rõ hơn lý do tại sao không lựa chọn tốc độ thiết kế 250km/h”, thông báo kết luận của Phó Thủ tướng nêu rõ.
Đồng thời, Phó Thủ tướng yêu cầu bổ sung rõ các luận cứ để chứng minh cần thiết phải xây dựng toàn bộ tuyến, không phân kỳ theo từng đoạn theo Kết luận số 49-KL/TW của Bộ Chính trị.
Trong đó, nghiên cứu phân tích dựa trên hiệu quả đầu tư giữa phương án đầu tư toàn tuyến so với phương án phân kỳ; ưu thế của từng phương thức đường bộ, đường sắt, đường thủy, hàng hải, hàng không, đường sắt tốc độ cao ở cự ly nào là phù hợp nhất? trường hợp đầu tư phân kỳ từng đoạn thì có bảo đảm tính kết nối, đồng bộ hay không?;…
“Quan điểm vận tải hành khách là chủ yếu, đáp ứng yêu cầu lưỡng dụng phục vụ quốc phòng, an ninh, có thể vận tải hàng hóa khi cần thiết, thông qua phương án khai thác, điều độ tàu”, Phó Thủ tướng nêu rõ.
Đồng thời, Phó Thủ tướng nhấn mạnh cần phân tích, đánh giá hiệu quả kinh tế dựa trên các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô; có cơ chế chính sách đặc thù để huy động vốn, tổ chức thực hiện dự án và kêu gọi các thành phần khác tham gia đầu tư một số hạng mục Dự án.
Về đánh giá hiệu quả kinh tế của Dự án, cần xem xét hiệu quả tổng thể của nền kinh tế khi có đường sắt tốc độ cao và đánh giá hiệu quả vận hành khai thác dự án đường sắt tốc độ cao.
“Việc phát triển đường sắt tốc độ cao phải bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, độc lập tự chủ để hình thành một ngành công nghiệp đường sắt nói chung, gồm đường sắt tốc độ cao, đường sắt đô thị, đường sắt quốc gia”, Phó Thủ tướng yêu cầu.
Trong đó, Bộ Xây dựng nghiên cứu xem xét đề xuất Đề án về phát triển ngành xây dựng đường sắt Việt Nam, trong đó lựa chọn một số doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp tư nhân tham gia (thị trường của ngành đường sắt là đủ lớn).
Bộ Công Thương góp ý trong Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án và nghiên cứu xem xét đề xuất Đề án phát triển công nghiệp liên quan cơ khí, chế tạo cho ngành đường; nghiên cứu có cơ chế giao Tổng công ty Đường sắt Việt Nam hoặc doanh nghiệp có năng lực tham gia.
Về phát triển nguồn nhân lực, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà lưu ý: “Phát triển nguồn nhân lực cần tính toán đi trước một bước. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Giao thông Vận tải và Tổng công ty Đường sắt Việt Nam nghiên cứu xem xét đề xuất Đề án phát triển nguồn nhân lực (sử dụng ngân sách nhà nước) để tiếp nhận công nghệ từ xây dựng phát triển hạ tầng, cơ khí, chế tạo, quản lý khai thác và điều hành,…”
BẢO ĐẢM HƯỚNG TUYẾN THẲNG NHẤT CÓ THỂ
Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà yêu cầu Bộ Giao thông Vận tải nghiên cứu tham khảo các cơ chế đặc thù của Đề án hệ thống mạng lưới đường sắt đô thị thành phố Hà Nội, TP.HCM đến năm 2035, để có cơ chế đặc thù phân cấp, phân quyền cho địa phương (sử dụng nguồn vốn ngân sách trung ương, vốn ngân sách địa phương; bố trí vốn theo kế hoạch đầu tư công trung hạn 5 năm hay nhiều kỳ trung hạn 10, 15 năm…).
Bộ Giao thông vận tải phân định rõ các nội dung Trung ương và địa phương theo khả năng, năng lực của từng địa phương. Qua đó huy động nguồn lực đóng góp ngân sách của địa phương, từ nguồn quỹ đất dọc tuyến và đất tại các nhà ga (theo thiết kế TOD); cơ chế chính sách đổi đất lấy hạ tầng (TOD).
Bên cạnh đó, nghiên cứu cơ chế để doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân tham gia tiếp nhận, nghiên cứu phát triển công nghệ cơ khí, chế tạo, tự động hóa,…
“Xác định rõ vai trò của Tổng công ty Đường sắt Việt Nam; lấy ngành đường sắt (đường sắt tốc độ cao, đường sắt đô thị và đường sắt quốc gia) để làm “cú huých” phát triển một số ngành quan trọng của nền kinh tế đất nước. Về hướng tuyến cần bảo đảm hướng tuyến thẳng nhất có thể”, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà nhấn mạnh.
Đồng thời, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các bộ, ngành liên quan khẩn trương thực hiện các công việc cần thiết để báo cáo Chính phủ trình Quốc hội thông qua chủ trương tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XV.
Bộ Giao thông Vận tải khẩn trương bổ sung hoàn thiện Hồ sơ gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư (trước ngày 01/10/2024) để phục vụ công tác thẩm định.
Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà yêu cầu Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư chỉ đạo Hội đồng thẩm định Nhà nước triển khai, hoàn tất việc thẩm định theo quy định, trên cơ sở đó hoàn thiện Báo cáo trình Chính phủ trước ngày 05/10/2024.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Giao thông Vận tải chủ động gửi Hồ sơ xin ý kiến và mời các cơ quan của Quốc hội cùng tham gia trong quá trình thẩm định, hoàn thiện hồ sơ Dự án.
Theo yêu cầu của Phó Thủ tướng, báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam cần hoàn thiện và báo cáo Chính phủ trước ngày 7/10/2024.
Dự kiến, tại phiên họp thường kỳ tháng 9, Chính phủ sẽ xem xét thông qua báo cáo này trước khi hoàn thiện tờ trình trình Quốc hội xem xét thông qua chủ trương đầu tư Dự án.
Theo báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam được Bộ Giao thông Vận tải kiến nghị đầu tư tuyến đường sắt tốc độ cao với tốc độ thiết kế 350 km/giờ với tổng chiều dài 1.541 km; đường đôi, khổ 1.435 mm, điện khí hóa; Tổng mức đầu tư khoảng 67,34 tỷ USD.
Đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam dự kiến 23 ga hành khách, 5 ga hàng hóa. Dự án có điểm đầu tại thành phố Hà Nội, là tổ hợp ga Ngọc Hồi; Điểm cuối tại TP.HCM, là ga Thủ Thiêm.
Dự án đi qua địa phận 20 tỉnh, thành phố gồm: Hà Nội, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai, TP.HCM.