Chi tiết

Thị trường chứng Việt Nam thuộc dạng biến động nhất trong khu vực

Mặc dù có đến 1.632 doanh nghiệp niêm yết hoặc đăng ký giao dịch, số lượng cổ phiếu có thể đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam lại tương đối nhỏ.

Mức vốn hoá của thị trường đã tăng

Theo Ngân hàng Thế giới (WB), mức vốn hóa thị trường đã tăng từ 38 – 58% trong thập kỷ qua, thậm chí còn đạt đỉnh 93% vào năm 2021.

Thị trường gồm hai sàn giao dịch trong phạm vi quản lý nhà nước là Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (HOSE) và Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX). Tổng mức vốn hóa lên đến 198 tỷ USD, song song với một thị trường nữa dành cho các công ty đại chúng chưa niêm yết (UPCOM) khoảng 43 tỉ USD.

Mục tiêu của việc sửa đổi lần này là tạo ra một môi trường đầu tư an toàn và minh bạch hơn cho các nhà đầu tư, đồng thời nâng cao chất lượng và tính minh bạch của thị trường chứng khoán Việt Nam.

Theo Ngân hàng Thế giới (WB), mức vốn hóa thị trường đã tăng từ 38 – 58% trong thập kỷ qua, thậm chí còn đạt đỉnh lên đến 93% vào năm 2021.

Tuy nhiên, theo WB, mặc dù vốn hóa thị trường ở mức lớn nhưng huy động vốn trên hai sàn giao dịch trên chưa đáng kể, bình quân đạt 1,5 tỷ USD mỗi năm trong 5 năm qua, chủ yếu qua chào bán thứ cấp, vượt trội chào bán đại chúng lần đầu (IPO). Các hoạt động IPO diễn ra sôi động nhất trong các năm 2017 – 2018, nhưng sau đó giảm mạnh. Trong năm 2023, chỉ có ba đợt IPO được thực hiện, huy động được 173 tỷ đồng (7 triệu USD).

WB cũng đánh giá thị trường cổ phiếu của Việt Nam thuộc dạng biến động nhất trong khu vực, do sự kết hợp cả yếu tố cung và cầu. Về cung, mặc dù có đến 1.632 doanh nghiệp niêm yết hoặc đăng ký giao dịch, số lượng cổ phiếu có thể đầu tư lại tương đối nhỏ.

Không chỉ quy mô các doanh nghiệp trên thị trường cổ phiếu Việt Nam nhỏ hơn so với nhiều quốc gia khác trong khu vực, mà lượng cổ phiếu sẵn có cũng chịu ảnh hưởng bất lợi bởi giới hạn tỷ lệ sở hữu vốn của nhà đầu tư nước ngoài áp dụng cho một số ngành. Điều này dẫn đến biến động giá mạnh khi các nhà đầu tư muốn mua hay bán cổ phiếu.

Về cầu, thị trường thiếu sự đa dạng về nhà đầu tư, do sự chi phối của các nhà đầu tư cá nhân, chiếm phần lớn (89%) các giao dịch trong năm năm qua. Nhà đầu tư cá nhân thường có hành vi bầy đàn với tầm nhìn ngắn hạn. Một cơ sở các nhà đầu tư rộng hơn, và đặc biệt là gia tăng sự hiện diện của các nhà đầu tư tổ chức, sẽ giúp ổn định giá cổ phiếu.

“Khi tất cả các quỹ hưu trí, các công ty bảo hiểm và quỹ đầu tư đại chúng đều có những cân nhắc khác nhau khi tham gia hay rời khỏi thị trường, quyết định mua hay bán của một loại hình nhà đầu tư sẽ ảnh hưởng ít hơn đến giá thị trường”, WB nêu.

WB nhìn nhận rằng vì “sức khỏe” của thị trường cổ phiếu thường được coi là thước đo cho nền kinh tế thị trường của một quốc gia, điều hết sức quan trọng là cần duy trì quỹ đạo tăng trưởng dài hạn và ít biến động hơn.

Theo WB, trong thời gian tới, với khát vọng trở thành quốc gia thu nhập cao, Việt Nam cần thu hút đầu tư quốc tế ở mức đáng kể để tạo động lực tăng trưởng trong dài hạn. Khi quy mô cơ sở các nhà đầu tư trong nước còn nhỏ, Việt Nam cần thêm sự hỗ trợ của các nhà đầu tư danh mục quốc tế.

Thị trường chứng khoán Việt Nam là thị trường cận biên

Hiện nay, Việt Nam được MSCI và FTSE Russell – hai trong số những tổ chức xếp hạng chỉ số lớn nhất thế giới xếp hạng là thị trường cận biên. Việc nâng hạng lên thị trường mới nổi sẽ là động lực quan trọng để thị trường của Việt Nam được công nhận là có khả năng đầu tư.

Trong năm 2022, Bộ Tài chính (UBCKNN) đã triển khai nhiều đoàn kiểm tra đối với các mã chứng khoán có dấu hiệu giao dịch bất thường

Thị trường chứng khoán Việt Nam là thị trường cận biên.

Để được nâng hạng, WB khuyến nghị việc loại bỏ thông lệ ký quỹ trước giao dịch là hết sức quan trọng để thu hút các nhà đầu tư quốc tế lớn.

Ký quỹ và phong tỏa chứng khoán là trước một giao dịch bất kỳ, bên mua phải có sẵn tiền và bên bán phải nắm giữ sẵn chứng khoán. Điều này khiến cho tiền mất khả năng lưu động và cản trở giao dịch hiệu quả của các nhà đầu tư tổ chức, do họ phải chuyển tiền đến/ từ các quốc gia khác hoặc liên tục phải tái cân đối các danh mục của họ.

Tiếp đó là quy định giới hạn tỷ lệ sở hữu vốn của nhà đầu tư nước ngoài và tỷ lệ cổ phiếu tối đa nhà đầu tư nước ngoài được phép sở hữu. Việt Nam đặt ra giới hạn tỷ lệ sở hữu vốn của nước ngoài trong các doanh nghiệp vì lý do chủ quyền, an ninh quốc gia và lợi ích công chúng.

“Vì nhiều khi giới hạn tỷ lệ sở hữu của nước ngoài được xác định từ 30 – 50%, nên nhà đầu tư nước ngoài không thể tìm được chứng khoán để mua, nếu không phải trả chênh ở mức cao”, WB nêu.

Trong khi đó, cổ phiếu của các ngân hàng đặc biệt bị ảnh hưởng do giới hạn tỷ lệ sở hữu nước ngoài tương đối thấp (30%), trong khi các ngân hàng chiếm tỷ lệ lớn trong các chỉ số chứng khoán chính (VN30), vì vậy thường là mục tiêu đầu tư của các nhà đầu tư lớn.

“Nâng giới hạn tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài hoặc tạo ra phương án thay thế cho cổ phiếu đã chạm giới hạn, chẳng hạn thông qua chứng chỉ lưu ký không có quyền biểu quyết (NVDR) sẽ giúp xử lý được hạn chế đó”, WB khuyến nghị.

Tiếp theo, WB cho rằng cần tiếp cận thông tin công bằng. Để đảm bảo sân chơi công bằng, các nhà đầu tư nước ngoài cần được tiếp cận thông tin và tin tức thị trường cùng thời điểm như các nhà đầu tư trong nước. Đối với các doanh nghiệp lớn, điều này có nghĩa là đặt ra yêu cầu bắt buộc công bố thông tin bằng ngôn ngữ tiếng Anh và từng bước triển khai chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS).



Nguồn tin