Do tình hình thủy văn không thuận lợi, lưu lượng nước về hồ giảm mạnh, trong khi sản lượng điện sản xuất cao hơn, dẫn đến HNA thua lỗ quý thứ hai liên tiếp.
Theo báo cáo tài chính quý II/2024, Công ty CP Thủy điện Hủa Na (HoSE: HNA) ghi nhận doanh thu thuần tăng 16% so với cùng kỳ năm trước, lên 103 tỷ đồng. Tuy nhiên, do kinh doanh dưới giá vốn nên doanh nghiệp lỗ gộp 2,6 tỷ đồng, nhưng cũng đã cải thiện hơn con số lỗ gộp 11 tỷ đồng của cùng kỳ năm trước.
Trong kỳ, doanh thu từ hoạt động tài chính của doanh nghiệp giảm mạnh 54% so với cùng kỳ, xuống còn 2,3 tỷ đồng. Chi phí cho hoạt động này cũng giảm mạnh 79% so với cùng kỳ, xuống còn 2,1 tỷ đồng, chủ yếu là giảm chi phí lãi vay. Các chi phí khác như chi phí bán hàng trong kỳ này không ghi nhận, trong khi chí phí quản lý doanh nghiệp không có nhiều biến động so với cùng kỳ năm trước.
Sau khi khấu trừ chi phí, doanh nghiệp ngành thủy điện này báo lỗ sau thuế 10 tỷ đồng, cải thiện hơn mức lỗ 24 tỷ đồng của cùng kỳ năm trước. Đây cũng là quý kinh doanh thua lỗ thứ hai liên tiếp của doanh nghiệp này.
Theo lãnh đạo doanh nghiệp, nguyên nhân thua lỗ là do lưu lượng nước về hồ trong quý II/2024 đạt bình quân 18,93 m3/s, giảm 45% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, sản lượng điện sản xuất cao hơn, nhiều khả năng do mức huy động tăng. Còn chi phí tài chính giảm là do dư nợ ngân hàng, trái phiếu giảm một nửa so với cùng kỳ năm 2023, chỉ còn gần 139 tỷ đồng.
Lũy kế 6 tháng đầu năm, doanh thu thuần của HNA ghi nhận giảm 28% so với cùng kỳ, xuống còn 206 tỷ đồng. Do lỗ quý thứ hai liên tiếp, nên 6 tháng đầu năm, doanh nghiệp lỗ sau thuế 14 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ năm trước lãi 46 tỷ đồng. Với kết quả này, doanh nghiệp chỉ mới hoàn thành 28% mục tiêu doanh thu năm và còn cách rất xa kế hoạch lãi sau thuế 180 tỷ đồng mà ĐHĐCĐ năm 2024 đã thông qua.
Tính đến cuối quý II/2024, tổng tài sản của HNA đạt gần 3.400 tỷ đồng, không biến động nhiều so với hồi đầu năm. Trong đó, tài sản ngắn hạn đạt hơn 517 tỷ đồng, tăng 11% so với đầu năm. Lượng tiền mặt nắm giữ cũng tăng gấp 4 lần so với đầu năm, lên 392 tỷ đồng. Trong khi đó, khoản phải thu ngắn hạn từ khách hàng giảm mạnh 72% so với hồi đầu năm, xuống còn gần 97 tỷ đồng, do doanh nghiệp đã thu được khoản tiền điện từ Công ty mua bán điện của EVN.
Theo Chứng khoán Tiên Phong (TPS), với điều kiện thủy năng dồi dào, Việt Nam có thể khai thác tối đa công suất đạt từ 30.000 MW đến 38.000 MW và điện năng có thể khai thác lên đến 120 tỷ kWh/năm. Hiện có 41 nhà máy thủy điện có công suất từ 100 MW trở lên, với tổng công suất 24.330 MW. Tính tới cuối năm 2023, tổng công suất đạt 22.878 MW và sản lượng điện hàng năm đạt 80,9 tỷ kWh. Định hướng năm 2050, tổng công suất thủy điện đạt 36.016 MW, sản xuất 114,8 tỷ kWh/năm. Tuy nhiên, nhược điểm của thủy điện là chịu ảnh hưởng của thời tiết như El Nino, La Nina.
TPS cho biết, trong năm 2023, do tình hình thủy văn có nhiều diễn biến bất lợi nên nhiều hồ thủy điện toàn quốc có lượng nước về rất ít, lưu lượng nước 4 tháng đầu năm 2023 ở các hồ thủy điện phía Bắc chỉ đạt khoảng 60% – 70% so với trung bình nhiều năm. Các hồ thủy điện khu vực miền Trung và miền Nam cũng chung hoàn cảnh tương tự, dẫn đến sự thiếu hụt nghiêm trọng công suất huy động từ thủy điện.
Tính đến cuối năm 2023, tổng công suất nguồn điện toàn hệ thống đạt khoảng 80.555 MW, tăng gần 2.800 MW so với năm 2022. (Tuy nhiên, tỷ lệ công suất đặt do EVN và các GENCOs thuộc EVN sở hữu chỉ 29.966 MW – chiếm tỷ trọng 37,2% công suất toàn hệ thống).
Tương tự, trong quý I/2024, do ảnh hưởng của thời tiết, điều kiện thủy văn không thuận lợi nên nguồn điện than, năng lượng tái tạo và khí được tăng cường huy động. Bên cạnh đó, điện nhập khẩu cũng tăng lên. Cụ thể, nhập khẩu toàn hệ thống đạt 69,34 tỷ kWh, cao hơn 1,35 tỷ kWh so với kế hoạch năm và tăng 10,4% so với cùng kỳ 2023.
Theo dự báo của NOAA, 85% khả năng chu trình ENSO sẽ chuyển sang giai đoạn trung tính trong khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 6 năm 2024 và sau đó có 60% khả năng La Nina sẽ phát triển từ tháng 6 đến tháng 8 năm 2024.
Theo dữ liệu của Viện Nghiên cứu Quốc tế (IRI), pha La Nina thường kéo dài từ 9 – 12 tháng, hoặc thậm chí lên đến 2 năm, do đó pha La Nina xác suất cao sẽ kéo dài trong cả năm sau. Hiện tượng La Nina giúp lượng nước dồi dào, sản lượng thủy điện thường tăng lên trong chu kỳ La Nina.
Ngoài ra, lộ trình thị trường điện cạnh tranh của EVN sẽ phát triển theo xu hướng bán trên thị trường cạnh tranh ngày càng nhiều, giảm tỷ lệ bán theo hợp đồng. Do đó, thủy điện sẽ có lợi thế hơn so với nhiệt điện do giá vốn thấp hơn.